Đây là những nguyên lý kỹ thuật phần mềm, được trích từ cuốn sách Clean Code của tác giả Robert C. Martin (thường gọi là Uncle Bob) rất thích hợp cho ngôn ngữ PHP. Tài liệu này không phải là sách hướng dẫn về phong cách viết code, mà là hướng dẫn cách làm thế nào để viết phần mềm dễ đọc, dễ sử dụng lại, và dễ cải tiến trong PHP.
Bạn không cần phải tuân theo tất cả các nguyên tắc trong tài liệu này. Đây chỉ đơn giản là những hướng dẫn, nhưng dù sao nó cũng là đúc kết từ nhiều năm kinh nghiệm của tác giả.
Table of contents [Show]
Sử dụng tên biến có ý nghĩa và dễ hiểu
Chưa tốt
$ymdstr = $moment->format('y-m-d');
Tốt
$currentDate = $moment->format('y-m-d');
Đặt tên sao cho dễ tìm kiếm
Chưa tốt . ( 448 là cái gì ?????)
$result = $serializer->serialize($data, 448);
Tốt
$json = $serializer->serialize($data, JSON_UNESCAPED_SLASHES | JSON_PRETTY_PRINT | JSON_UNESCAPED_UNICODE);
Đặt tên biến sao cho dễ hiễu
Tức là đặt tên biến sao cho đọc vô là hiểu nó là gì và nó dùng để làm gì. Không cần phải suy nghĩ, suy diễn.
Tránh lồng quá nhiều điều kiện
Quá nhiều if else lồng nhau sẽ khiến code tăng độ phức tạp, khó debug. Giảm sự phức tạp bằng cách giảm số if else lồng nhau xuống ít nhất có thể. Return sớm chính là một cách giảm số lần lồng nhau.
Chưa tốt
function isShopOpen($day): bool { if ($day) { if (is_string($day)) { $day = strtolower($day); if ($day === 'friday') { return true; } elseif ($day === 'saturday') { return true; } elseif ($day === 'sunday') { return true; } else { return false; } } else { return false; } } else { return false; } }
Tốt
function isShopOpen(string $day): bool { if (empty($day)) { return false; } $openingDays = [ 'friday', 'saturday', 'sunday' ]; return in_array(strtolower($day), $openingDays, true); }
Mỗi hàm chỉ thực hiện một chức năng
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong phát triển phần mềm. Khi hàm thực hiện nhiều hơn một chức năng, chúng khó biên dịch, kiểm tra và biết được nguyên nhân lỗi. Khi bạn tạo hàm chỉ với một chức năng, sẽ dễ dàng refactor hơn và code sẽ dễ đọc hơn. Nếu làm được điều này thì bạn sẽ tốt hơn nhiều lập trình viên khác.
Đồng thơi, tên hàm nên thể hiện đúng chức năng của hàm.
Nguyên lý trách nhiệm duy nhất
Như đã đề cập trong cuốn Clean Code, "Không nên có nhiều hơn một lý do để thay đổi class". Viết một class với thật nhiều chức năng thì quá sướng. Vấn đề là class không có khái niệm liên kết và nó có khá nhiều lý do để thay đổi. Nếu quá nhiều chức năng trong một class thì khi thay đổi gì đó mình không biết được hết những ảnh hưởng của nó đến các chức năng khác trong các module liên quan.
Nguyên lý thay thế Liskov
Nguyên lý này được định nghĩa như sau "Nếu S là phụ thuộc của T, thì object của T có thể được thay thế bởi object của S (nghĩa là object của S có thể thay thế object của T) mà không làm thay đổi các thuộc tính của chương trình(tính đúng đắn, công việc thực hiện,...)"
Để dễ hiểu hơn, nếu bạn có một class cha và một class con, sau đó class cha và class con có thể được sử dụng hoán đổi cho nhau mà không sai kết quả trả về. Có thể vẫn còn khó hiểu, hãy xem ví dụ cơ bản Square-Rectangle .
Trong toán học, hình vuông là hình chữ nhật, nhưng nếu bạn sử dụng quan hệ "is-a" qua kế thừa, bạn sẽ gặp rắc rối.
Nguyên lý phân tách interface
ISP đề cập rằng "Không nên ép người dùng phải phụ thuộc vào interface mà họ không sử dụng."
Để hiểu ý nghĩa của nguyên tắc này, hãy nhìn vào những class yêu cầu một số lượng lớn các object cần phải inject vào để sử dụng. Không yêu cầu người dùng phải inject số lượng lớn các tùy chọn là một lợi thế, bởi vì hầu hết chúng không cần thiết. Hãy coi chúng là tùy chọn(có thể không dùng) để giúp cho interface bớt phình to.